Nhiều người thắc mắc trong trường hợp bị người khác lấy thẻ căn cước hay căn cước công dân của mình đi vay nợ thì mình có phải trả khoản nợ này không?
Căn cứ Điều 463, Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015, hợp đồng vay tài sản được hình thành khi có sự thỏa thuận giữa bên cho vay và bên vay.
Bên vay phải có nghĩa vụ trả nợ cho bên cho vay, trường hợp vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn.
Như vậy, việc vay nợ chỉ được xác lập dựa trên sự thỏa thuận của các bên dưới tinh thần tự nguyện.
Trường hợp bạn bị người khác lấy cắp thông tin căn cước công dân để vay nợ nhưng trên thực tế không thực hiện giao dịch vay tiền, không nhận tiền vay thì không có nghĩa vụ phải trả nợ.
Tuy nhiên, bạn cần chứng minh được bản thân không phải là người vay tiền.
Ngoài ra, bạn cũng có thể liên hệ đến các ngân hàng và dịch vụ tài chính mà thông tin căn cước công dân của bạn có thể bị lạm dụng để kiểm tra thông tin tài khoản, thông tin về các khoản vay và thông báo cho các tổ chức này biết sự việc để kịp thời ngăn chặn các hoạt động trái phép có thể xảy ra.
Bên cạnh đó, đối với việc người lấy thông tin căn cước công dân, thẻ căn cước, giả chữ ký của người khác nhưng tổ chức cho vay tín dụng vẫn cho vay. Việc này nếu người dân phát hiện bản thân không vay, không ký thì có ý kiến với cơ quan chức năng điều tra, làm rõ vì việc này có dấu hiệu phạm tội lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản.
Người bị đánh cắp thông tin có thể trình báo sự việc trên cho các cơ quan công an theo quy định tại Điều 163 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 và khoản 1 Điều 7 Thông tư 28/2020/TT-BCA để được cơ quan có thẩm quyền tiến hành điều tra, xác minh sự việc cũng như đưa ra phương án xử lý với người lấy cắp thông tin.
Riêng trường hợp giấy tờ nhân thân bị rơi, mất thì phải nhanh chóng thông báo với cơ quan có thẩm quyền về việc làm rơi, mất giấy tờ nhân thân của mình. Trong trường hợp giấy tờ chứa thông tin cá nhân bị đánh rơi, mất thì phải thông báo đến cơ quan có thẩm quyền để được bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
Đối cá nhân có hành vi sử dụng thông tin cá nhân của người khác không đúng mục đích hoặc không có sự đồng ý của chủ thể, có thể bị phạt tiền từ 20 – 30 triệu đồng theo quy định tại khoản 2 Điều 84 nghị định 15/2020/NĐ-CP (sửa đổi bổ sung bởi nghị định 14/2022/NĐ-CP).
Ngoài ra, nếu bạn phải chịu thiệt hại do hành vi tự ý chiếm giữ và sử dụng thông tin căn cước công dân để vay tiền, bạn có thể khởi kiện người đó yêu cầu bồi thường thiệt hại theo khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015.